Gắn kết học thuật với chính sách: Thúc đẩy vai trò của các trường đại học và mạng lưới nghiên cứu trong phát triển bền vững ngành nông lâm sản

Ngày 17/5/2025, Trường Đại học Lâm nghiệp phối hợp với Tổ chức Forest Trends tổ chức Hội thảo “Các khuôn khổ pháp lý toàn cầu về không gây mất rừng và tác động đối với Việt Nam”. Trong bối cảnh các yêu cầu từ các thị trường xuất khẩu như Liên minh Châu Âu ngày càng nghiêm ngặt – từ EUDR, VPA/FLEGT đến thị trường tín chỉ carbon – các cơ sở nghiên cứu và đào tạo đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc đồng hành cùng nhà nước và doanh nghiệp để thích ứng và chủ động hội nhập.

Hội thảo là dịp để đại biểu đến từ các cơ quan nhà nước, các trường đại học và tổ chức nghiên cứu cùng nhau trao đổi về vai trò của học thuật trong xây dựng và phản biện chính sách, cũng như khởi động một sáng kiến thiết lập mạng lưới các trường nông – lâm – môi trường nhằm chia sẻ thông tin, hợp tác nghiên cứu và hỗ trợ triển khai chính sách.

Học thuật: Nền tảng cho chính sách dựa trên bằng chứng

Từ những chia sẻ trong phiên buổi sáng, nhiều đại biểu thống nhất rằng chính sách quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, không thể thiếu sự đồng hành của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo. Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu nghiêm ngặt từ các thị trường quốc tế như EU trong việc đảm bảo sản phẩm nông – lâm sản không gây mất rừng, có khả năng truy xuất và tuân thủ pháp luật môi trường, xã hội.

Ảnh 1: Toàn thể đại biểu.TS. Nguyễn Trung Kiên (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chỉ rõ: “Việt Nam nằm trong top 15 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, buộc phải chủ động thích ứng với các quy định quốc tế.” Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng hiện vẫn còn thiếu các nghiên cứu nền tảng để phục vụ quá trình hoạch định và điều chỉnh chính sách – từ dữ liệu bản đồ, kế hoạch hành động, đến các tiêu chuẩn kỹ thuật.

TS. Trương Tất Đơ (Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm) bổ sung: “Khác với EUTR, EUDR yêu cầu truy xuất tới tận lô sản xuất và đảm bảo tính bền vững. Nếu không có sự vào cuộc của các trường đại học và viện nghiên cứu, đặc biệt trong đào tạo và ứng dụng công nghệ như viễn thám, GIS, mã số rừng, các hộ trồng rừng nhỏ lẻ sẽ có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi giá trị xuất khẩu.”

TS. Tô Xuân Phúc (Forest Trends) cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện thiếu nghiêm trọng các nghiên cứu toàn diện về chính sách và chuỗi cung ứng. “Chúng ta chưa hiểu rõ cách thức sản xuất của các nhóm nông hộ khác nhau, chưa có đủ thông tin về các doanh nghiệp siêu nhỏ – trong khi đây lại là lực lượng chiếm tỷ lệ lớn trong ngành. Nếu không có nghiên cứu thì sẽ khó xây dựng được chính sách phù hợp và bao trùm.”

Một trong những ý kiến đáng chú ý được nêu tại hội thảo là từ ông Nguyễn Bá Ngãi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Ông cho rằng: “Từ năm 2011 đến 2016, chúng ta đã mất rừng rất nhiều do chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, từ khi ban hành quyết định đóng cửa rừng tự nhiên vào năm 2016, tình trạng này đã được cải thiện rõ rệt. Vấn đề là chúng ta chưa có nghiên cứu nào để chứng minh cho cộng đồng quốc tế thấy được nỗ lực của Việt Nam trong bảo vệ rừng.” Ông nhấn mạnh, các trường đại học hoàn toàn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp những bằng chứng khoa học này.

Về thị trường carbon, ông Ngãi cho biết thêm: “Viện và trường đã nghiên cứu rất nhiều về carbon, nhưng chưa có kênh chia sẻ hiệu quả để thông tin đến các bên liên quan.” Ông đề xuất quyền carbon cần được thể chế hóa như một loại quyền lâm sản, có cơ chế kiểm kê hàng năm và giao nhiệm vụ cụ thể cho chủ rừng. Theo ông, nếu không làm rõ được quyền carbon, sẽ rất khó để phát triển thị trường này một cách bài bản.

Từ góc độ học thuật, PGS.TS Đỗ Anh Tuân (Trường Đại học Lâm nghiệp) nhấn mạnh rằng trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, và sẽ triển khai thị trường carbon nội địa từ năm 2029, các trường đại học cần đi đầu trong việc nghiên cứu và đánh giá tiềm năng hấp thụ và giảm phát thải trong ngành lâm nghiệp. “Việt Nam có thể đóng góp tới 400 triệu tấn CO2tđ nếu được hỗ trợ quốc tế. Nhưng để làm được điều đó, cần có một hệ thống nghiên cứu bài bản từ cơ sở, với sự tham gia tích cực của các trường,” ông nói.

Đào tạo và thế hệ kế cận: Hạt nhân cho sự chuyển đổi bền vững

Một nội dung được nhấn mạnh xuyên suốt các phiên thảo luận là vai trò của đào tạo trong việc hình thành đội ngũ nhân lực hiểu biết, có khả năng triển khai và vận dụng chính sách trong tương lai. Sinh viên ngày nay là cán bộ ngành lâm nghiệp, môi trường, nông nghiệp ngày mai – nhưng nếu không được trang bị kịp thời, họ sẽ không thể bắt nhịp với các yêu cầu toàn cầu.

PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hương (ĐH Tây Nguyên) đề xuất xây dựng chương trình đào tạo linh hoạt, tích hợp nội dung về thị trường carbon, các quy định mới như EUDR, các phương pháp đo đạc tín chỉ carbon rừng… vào giảng dạy chính quy. “Nếu các trường phối hợp, chia sẻ tài liệu, tổ chức các lớp học liên trường thì hiệu quả đào tạo sẽ cao hơn rất nhiều, và sinh viên cũng sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về các chính sách mới.”

TS Nguyễn Đình Tư (Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Lâm nghiệp) đồng tình và cho rằng cần gắn người làm rừng với lợi ích trực tiếp từ thị trường carbon. “Chúng ta không thể bảo vệ rừng bằng khẩu hiệu, mà phải cho người dân thấy lợi ích rõ ràng từ việc giữ rừng – và điều đó phải bắt đầu từ lớp học, từ chương trình đào tạo.”

Ảnh 2: Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm phát biểu tại Hội thảo.

Một đề xuất cụ thể được nêu ra là xây dựng các module đào tạo liên trường, chia sẻ tài liệu, giảng viên và cách tiếp cận nhằm chuẩn hóa và lan tỏa kiến thức về các chủ đề mới, từ carbon đến truy xuất nguồn gốc. Sinh viên hôm nay sẽ là người thực thi chính sách ngày mai – và vì vậy, giáo dục chính là đầu tư cho tương lai của ngành.

Mạng lưới học thuật: Hạ tầng chia sẻ tri thức và kết nối hành động

Tại phiên buổi chiều, các đại biểu đã cùng thảo luận và thống nhất về việc hình thành một mạng lưới nghiên cứu – đào tạo giữa các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm chia sẻ kiến thức, kết nối học thuật và tham gia hiệu quả hơn vào quá trình xây dựng chính sách.

Ảnh 3: Đại diện từ các trường đại học nông – lâm nghiệp thảo luận phát triển mạng lưới học thuật.

TS. Tô Xuân Phúc đề xuất: “Hiện tại các mạng lưới về EUDR và thị trường carbon vẫn thiếu sự tham gia chính thức của khối học thuật. Trong khi đó, các trường đại học lại sở hữu lượng kiến thức, dữ liệu và năng lực nghiên cứu rất lớn về các đặc thù vùng miền. Việc thành lập một mạng lưới học thuật sẽ giúp kết nối những tài nguyên đó và đóng góp trực tiếp vào chính sách.”

Các trường đại học tham dự đều bày tỏ sự đồng thuận cao. PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh: “Chúng tôi kỳ vọng có thể phân vùng mạng lưới theo các vùng sinh thái đặc thù. Ví dụ Tây Nguyên với cà phê, tiêu; miền Tây với lúa; Tây Bắc với cây ăn quả… Mỗi vùng có tiềm năng riêng và cần những tiếp cận chính sách riêng.”

GS.TS. Phạm Văn Điển đề xuất mỗi trường nên cử hai đầu mối tham gia mạng lưới, cùng phối hợp viết đề xuất, chia sẻ tài liệu, và tổ chức các hoạt động chung như hội thảo, nghiên cứu và truyền thông. Ông cho rằng: “Mỗi trường đều có thế mạnh riêng. Nếu liên kết tốt, chúng ta có thể tận dụng tối đa các cơ hội tài trợ, đồng thời hỗ trợ lẫn nhau về chuyên môn và đào tạo.”

Đồng quan điểm, ông Trần Quang Bảo (Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm) khẳng định: “Các trường đại học cần trở thành đối tác chiến lược trong quá trình thực hiện các chính sách mới. Các vấn đề như đo đếm carbon, mã hóa rừng, bản đồ GIS đều là kỹ năng phải được giảng dạy. Nếu không có sự chung tay, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội từ thị trường carbon và các thị trường xuất khẩu chất lượng cao.”

Kết luận: Từ nghiên cứu đến hành động – học thuật đồng hành cùng cải cách chính sách

Hội thảo ngày 17/5 đã làm rõ một điều: để thích ứng và hội nhập chủ động trong thời kỳ hậu toàn cầu hóa, Việt Nam không thể chỉ dựa vào hành lang pháp lý từ các cơ quan quản lý. Thay vào đó, cần một hệ sinh thái tri thức, nơi các trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp cùng chia sẻ thông tin, kiến thức và trách nhiệm.

Trong hệ sinh thái ấy, mạng lưới học thuật liên ngành và liên vùng sẽ đóng vai trò như trụ cột trung gian, kết nối tri thức học thuật với thực tiễn chính sách – vì một nền nông lâm nghiệp xanh, minh bạch và có trách nhiệm với môi trường toàn cầu.

Quý độc giả có thể xem lại bài trình bày tại LINK và toàn bộ hội thảo qua video LINK

Nguồn: https://mkresourcesgovernance.org/2025/05/17/gan-ket-hoc-thuat-voi-chinh-sach-thuc-day-vai-tro-cua-cac-truong-dai-hoc-va-mang-luoi-nghien-cuu-trong-phat-trien-ben-vung-nganh-nong-lam-san/

Chatbot AI
Tư vấn tuyển sinh VNUF